HMS Verulam (R28)
Lịch sử | |
---|---|
Anh Quốc | |
Tên gọi | HMS Verulam (R28) |
Đặt hàng | 1 tháng 9 năm 1941 |
Xưởng đóng tàu | Swan Hunter |
Đặt lườn | 26 tháng 6 năm 1942 |
Hạ thủy | 22 tháng 4 năm 1943 |
Nhập biên chế | 12 tháng 12 năm 1943 |
Xuất biên chế | 1970 |
Xếp lớp lại | tàu frigate Kiểu 15, 1953 |
Số phận | Bán để tháo dỡ, 23 tháng 9 năm 1972 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | lớp tàu khu trục V |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 363 ft (111 m) |
Sườn ngang | 35 ft 8 in (10,87 m) |
Mớn nước | 10 ft (3,0 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 36,75 hải lý trên giờ (42,3 mph; 68,1 km/h) |
Tầm xa | 4.860 nmi (9.000 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 180 |
Vũ khí |
|
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | tàu frigate Kiểu 15 |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 358 ft (109 m) (chung) |
Sườn ngang | 37 ft 9 in (11,51 m) |
Mớn nước | 14 ft 6 in (4,42 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 31 hải lý trên giờ (57 km/h; 36 mph) (đầy tải) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 174 |
Hệ thống cảm biến và xử lý |
list error: mixed text and list (help)
|
Vũ khí |
|
HMS Verulam (R28/F29) là một tàu khu trục lớp V được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh để phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Verulam sống sót qua cuộc chiến tranh, được cải biến thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 15 vào năm 1953 với ký hiệu lườn mới F29, và tiếp tục phục vụ cho đến khi ngừng hoạt động năm 1977 và bị tháo dỡ năm 1980. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoàng gia được đặt cái tên này.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Verulam được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Swan Hunter and Wigham Richardson Ltd. ở Wallsend-on-Tyne và được đặt lườn vào ngày 26 tháng 6 năm 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 4 năm 1943 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 12 tháng 12 năm 1943.
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]Verulam đã tham gia Trận chiến eo biển Malacca cùng các tàu khu trục HMS Saumarez, HMS Venus, HMS Vigilant và HMS Virago vốn đã đưa đến việc đánh chìm chiếc tàu tuần dương Nhật Bản Haguro vào ngày 16 tháng 5 năm 1945.
Verulam sau đó được chọn để cải biến toàn diện thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 15, và mang ký hiệu lườn mới F29. Vào năm 1953, nó tham gia cuộc Duyệt binh Hạm đội nhân lễ Đăng quang của Nữ hoàng Elizabeth II.[1]
Verulam ngừng hoạt động vào năm 1977 và bị tháo dỡ vào năm 1980.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Souvenir Programme, Coronation Review of the Fleet, Spithead, 15th June 1953, HMSO, Gale and Polden
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
- Raven, Alan; Roberts, John (1976). Ensign 6 War Built Destroyers O to Z Classes. London: Bivouac Books. ISBN 0-85680-010-4.
- Whitley, M.J. (1988). Destroyers of World War 2. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-326-1.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]